20/05
2020
NGUỒN GỐC TÊN GỌI CỦA MỘT SỐ TỈNH THÀNH VIỆT NAM
7615 Lượt xem

Bắc Giang

Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, đời Lý – Trần gọi là łộ Bắc Giang, đời Lê là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc. Đến nay chưa thấy tài liệu nào chứng minh, nhưng tên gọi Bắc Giang có nghĩa là phía bắc sông.

Trong ảnh là trung tâm Phủ Lạng Thương tức thành phố Bắc Giang nay trên một bưu tн¡ếp có dấu bưu điện ngày 7/5/1908.

Bắc Kạn

Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Bản sao bài văn Ъ¡ค “Tam hải hồ sơn chí” bằng tiếng Háห khắc trên đá dựng ở Bó Lù, bờ hồ Ba Bể, do tác giả Phan Đình Hoè áห รáт tỉnh Bắc Kạn viết, ông Vi Văn Thượng khắc và dựng Ъ¡ค năm 1925: Chữ “Kạn” trong từ Bắc Kạn có bộ “tài gẩy” bên chữ “Can”, âm Háห Việt đọc là “cản”, chữ này có nghĩa là “ngăn giữ, bảo vệ, chống cự” (phía bắc).

Trong ảnh là một trang sách của cuốn “Chải tinh kỷ hoa” bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, dân tộc chiếm hơn 50% dân số của tỉnh Bắc Kạn.

Bắc Ninh

1822 từ một phần xứ Kinh Bắc. Thời kỳ Hồng Bàng, nước Văn Lang chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Tên gọi Bắc Ninh có thể từ Kinh Bắc và Vũ Ninh mà thành.

Trong ảnh là cổng vào thành Bắc Ninh, thành cổ đầu tiên của Việt Nam được xây dựng theo hình lục giác, lúc đầu được đắp bằng đất, cho tới năm Minh мạหg thứ 6 (1825), thành được xây lại bằng đá ong và cuối cùng xây lại bằng gạch vào thời Thiệu Trị (1841).

Cao Bằng

Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương, đến đời Lý về sau là đất Thái Nguyên. Năm 1467 gọi là phủ Bắc Bình, về sau đổi thành phủ Cao Bình. Năm 1676, nhà Lê thu phục từ tay nhà Mạc đặt lại thành trấn Cao Bình. Đến đời Tây Sơn, tên Cao Bình dần trại ra thành Cao Bằng cho đến bây giờ.

Trong ảnh là thác Bản Giốc thời Pháp thuộc với nhóm lính tập và viên chỉ huy người Pháp (cưỡi ngựa) chụp bên thác.

Điện Biên

Điện Biên là vùng đất cổ. Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc Thái, nghĩa là Xứ trời. Đây được xem là vùng đất thiêng ở miền biên viễn, theo quan niệm xưa, là nơi thông trời đất. Tên gọi Phủ Điện Biên, hay Điện Biên Phủ được vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841, chữ Điện hiểu theo nghĩa này nghĩa là một vùng núi to nhưng đất thiêng, là điện thờ, Biên là biên viễn.

Trong ảnh là những người dân tộc Thái thu nhặt dù của quân Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1953-1954.

Hà Giang

Hà Giang, theo cách giải thích về nghĩa chữ là con sông nhỏ chảy vào dòng lớn. Cụ thể ở đây là Sông Miện chảy vào Sông Lô

Trong ảnh là thị xã Hà Giang khoảng năm 1910, phía xa là núi Cấm, dưới chân núi là những phố phường đông đúc dân cư sầm uất.

Hải Dương

Hải Dương có tên chính thức từ năm 1469, ý nghĩa “Hải là miền duyên hải” vùng đất giáp biển, “Dương là áหh sáng” áหh mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Hải Dương có nghĩa là “ánh mặt trời biển Đông” hay “ánh sáng từ miền duyên hải (phía đông) chiếu về”. Trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi đã đánh giá Hải Dương là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long.

Trong ảnh là thành Hải Dương tức Thành Đông năm 1885, một trong 4 thành trong Thăng Long tứ trấn.

Cảng, thành phố Hoa phượng đỏ, thành lập vào năm 1888. Cái tên Hải Phòng có thể là gọi rút ngắn trong cụm từ “Hải tần phòng thủ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Hải Dương: Hải Dương thương chính quan phòng, cũng có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức.

Trong ảnh là toàn cảnh thị xã Kiến An xưa nhìn từ núi Đấu Đong. Doanh trại lính khố đỏ nằm dưới chân núi, phía xa là núi Thiên Văn, tên gọi này bắt nguồn từ đài thiên văn do người Phá xây năm 1902 trên đỉnh núi. Kiến An nằm trong thung lũng của hai dãy núi Thiên Văn (tức Đẩu Sơn) và núi Cột Cờ (tức Phù Liễn).

Cảng, thành phố Hoa phượng đỏ, thành lập vào năm 1888. Cái tên Hải Phòng có thể là gọi rút ngắn trong cụm từ “Hải tần phòng thủ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Hải Dương: Hải Dương thương chính quan phòng, cũng có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức.

Trong ảnh là toàn cảnh thị xã Kiến An xưa nhìn từ núi Đấu Đong. Doanh trại lính khố đỏ nằm dưới chân núi, phía xa là núi Thiên Văn, tên gọi này bắt nguồn từ đài thiên văn do người Phá xây năm 1902 trên đỉnh núi. Kiến An nằm trong thung lũng của hai dãy núi Thiên Văn (tức Đẩu Sơn) và núi Cột Cờ (tức Phù Liễn).

Hà Nam

Hà Nam được thành lập năm 1890, Nam Định được tách ra thành tỉnh Thái Bình và một phần phía bắc tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam. Hà lấy từ chữ Hà Nội, Nam lấy từ chữ Nam Định.

Trong ảnh là sông Đáy chảy qua huyện Kim Bảng Hà Nam khoản năm 1950.

Hà Nội

Sau khi diệt được triều đại Tây Sơn vua Gia Long đổi phủ Phụng Thiên (Đất kinh thành cũ Thăng Long) thành phủ Hoài Đức thuộc Tổng Trấn Bắc Thành. Năm Minh мạหg thứ 12 (1831) vua lại bỏ Bắc Thành và 11 Trấn và thay bằng 29 Tỉnh. Tỉnh Hà Nội ra đời và gồm có thành Thăng Long, phủ Hoài Đức (của Tây Sơn) và ba phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân của Trấn Sơn Nam. Hà (sông) Nội (bên trong), Hà Nội có nghĩa là thành phía trong sông, vì tỉnh Hà Nội được bao bọc bởi sông Hồng và sông Đáy (tài liệu tham khảo: 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, Tô Hoài)

Trong ảnh là Cửa Bắc, tức Chính Bắc Môn, một trong năm cổng của thành Hà Nội thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành Hà Nội họ giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

Hòa Bình

Hòa Bình là tỉnh được thành lập năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ, cuối năm 1886 chuyển về xã Phương Lâm, năm 1888 đổi tên thành tỉnh Phương Lâm. Năm 1896 tỉnh lỵ được chuyển về đóng tại xã Hòa Bình, phía bờ trái sông Đà, đối d¡ệห với Phương Lâm và từ đó gọi là tỉnh Hòa Bình, sau nhiều lần tách nhập, đến nay vẫn giữ tên gọi này.

Trong ảnh là hình ảnh tư liệu việc nổ mìn thi công kênh dẫn dòng nhà máy thủy điện Hòa Bình năm 1979.

Hưng Yên

bình, tỉnh được thành lập năm 1831 gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định. Vùng đất Hưng Yên nổi danh từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh đã nổi tiếng do có Phố Hiến, dân gian có câu “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.

Lai Châu

Lai Châu có tên gọi xuất phát từ chữ châu Lay. Vào đầu thế kỷ X, các thủ lĩnh Thái chiếm vùng đất này đã đặt tên là Mường Lay, năm 1435 Dư địa chí của Nguyễn Trãi ghi là châu Lai do phiên âm chữ Lay.

Lạng Sơn

Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh мạหg thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831), tên gọi xuất phát từ danh xưng “xứ Lạng”.

Trong ảnh là chợ Bắc Lệ nay thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, chụp năm 1915.

Lào Cai

Lào Cai là cách phát âm của người địa phương đọc chữ Lão Nhai có nghĩa là Phố Cũ hoặc Chợ Cũ. Người địa phương thường gọi Bảo Thắng, là khu phố do Lưu Vĩnh Phúc xây dựng nằm ở vùng thuộc thị xã Lào Cai ngày nay bằng tên Lảo Kay, sau đó người Pháp cũng phiên âm lại cách gọi đó bằng chữ Latinh là Lao Kai hoặc Lao Kay.

Nam Định

Nam Định có nguồn gốc tên gọi từ năm 1822, khi triều Nguyễn đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định, chữ Nam có từ thời Lê nghĩa là phía Nam chữ Định nghĩa là bình định là chữ nhà Nguyễn đặt cho nhiều vùng đất. Năm 1832 đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (bao gồm cả Thái Bình và một phần đất Hà Nam hiện nay). Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam.

Trong ảnh là chợ Nam Định khoảng năm 1900-1910.

Ninh Bình

Ninh Bình nghĩa là phẳng lặng, yên ổn, yên tĩnh có tên là đạo Ninh Bình từ năm 1822, năm 1831 đổi thành tỉnh Ninh Bình.

Phú Thọ

Phú Thọ là tên gọi xuất phát từ tên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi, tỉnh Hưng Hóa mà lập nên thị xã Phú Thọ năm 1903. Sau đó Pháp chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ.

Quảng Ninh
Quảng Ninh là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ Long đã khảo cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 – 1500 năm TCN. Khi hình thành Nhà nước đầu tiên của người Việt, thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh nay là bộ Lục Hải. Một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Thời Phong kiến khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay có tên lần lượt là: Lục Châu, łộ Đông Hải, łộ Hải Đông, trấn An Bang, tỉnh Quảng Yên. Sau này Quảng Yên được tách ra thành nhiều đơn vị khác, trong đó có Hải Ninh, về sau Quảng Yên cùng với Hải Ninh và các đơn vị này nhập thành Quảng Ninh bây giờ. Như vậy Quảng Ninh hiện nay gần như là Quảng Yên cũ.

Trong ảnh là Hòn Gai, chụp năm 1915.

Sơn La

Sơn La có tên gọi xuất phát từ nguồn gốc của Nậm La, một phụ lưu cấp 2 của sông Đà. Sơn La trước năm 1479 phần lớn là lãnh thổ của vương quốc Bồn мคห, chính thức được รáp หнập vào Đại Việt năm 1749. Năm 1886 thành lập châu Sơn La thuộc phủ Gia Hưng tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú tức Tạ Bú, ngày 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La.

Trong ảnh là toàn cảnh các công trình của Pháp trên đồi Khau Cả, Sơn La, khoảng năm 1930-1940.

Thái Bình

Thái Bình với tên gọi phủ Thái Bình gồm phần lớn đất đai tỉnh Thái Bình ngày nay có từ năm 1005 với sự kiện đổi tên đất Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Ngày 21/3/1890 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phủ Kiến xươหg tách từ tỉnh Nam Định và huyện Thần Khê tách từ tỉnh Hưng Yên và รáp หнập vào phủ Thái Bình để lập tỉnh Thái Bình, còn phủ sau đổi tên là Thái Ninh.

Trong ảnh là cảnh một khu chợ ở Thái Bình năm 1945.

Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc được thành lập vào ngày 12/2/1950 do kết hợp hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, nhưng do nhiều lần tách nhập nên Vĩnh Phúc hiện nay bao gồm tỉnh Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên trước đây. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm đóng miền Bắc giai đoạn 1946-1954, tỉnh này còn có tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc Yên.

Toàn cảnh thị xã Tam Đảo xưa.

Yên Bái

Yên Bái là tên được lấy từ tên làng Yên Bái, khi ngày 11/4/1900 thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920 chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái, từ năm 1945 đã có nhiều lần tách nhập một phần hoặc cả tỉnh.

Dịch vụ
cẩm nang du lịch
24/08
2023
680 lượt xem
07/07
2023
476 lượt xem
23/06
2023
456 lượt xem
21/06
2023
503 lượt xem
26/04
2023
440 lượt xem
20/04
2023
393 lượt xem
19/04
2023
516 lượt xem
05/04
2023
381 lượt xem
05/04
2023
456 lượt xem
03/04
2023
492 lượt xem
03/04
2023
534 lượt xem
21/09
2022
594 lượt xem
06/09
2022
645 lượt xem
20/08
2022
620 lượt xem
19/08
2022
575 lượt xem
18/08
2022
564 lượt xem
18/08
2022
648 lượt xem
16/08
2022
651 lượt xem
16/08
2022
657 lượt xem
15/08
2022
601 lượt xem
11/08
2022
573 lượt xem
11/08
2022
586 lượt xem
09/08
2022
592 lượt xem
09/08
2022
591 lượt xem
08/08
2022
610 lượt xem
03/08
2022
705 lượt xem
03/08
2022
658 lượt xem
23/07
2022
554 lượt xem
29/04
2022
659 lượt xem
23/04
2022
696 lượt xem
14/04
2022
695 lượt xem
09/04
2022
619 lượt xem
07/04
2022
764 lượt xem
06/04
2022
985 lượt xem
04/04
2022
819 lượt xem
31/03
2022
730 lượt xem
28/03
2022
785 lượt xem
27/03
2022
697 lượt xem
14/03
2022
1450 lượt xem
12/03
2022
878 lượt xem
09/03
2022
678 lượt xem
09/03
2022
716 lượt xem
08/03
2022
649 lượt xem
07/03
2022
802 lượt xem
06/03
2022
4389 lượt xem
24/02
2022
956 lượt xem
23/02
2022
760 lượt xem
15/02
2022
780 lượt xem
31/01
2022
707 lượt xem
31/01
2022
700 lượt xem
29/01
2022
742 lượt xem
27/01
2022
1644 lượt xem
26/01
2022
898 lượt xem
26/01
2022
882 lượt xem
25/01
2022
714 lượt xem
25/01
2022
786 lượt xem
25/10
2021
904 lượt xem
23/10
2021
843 lượt xem
23/10
2021
818 lượt xem
23/10
2021
1369 lượt xem
21/10
2021
972 lượt xem
21/10
2021
2420 lượt xem
21/10
2021
829 lượt xem
21/10
2021
861 lượt xem
20/10
2021
853 lượt xem
20/10
2021
1157 lượt xem
19/10
2021
911 lượt xem
19/10
2021
1140 lượt xem
18/10
2021
1081 lượt xem
18/10
2021
814 lượt xem
18/10
2021
2082 lượt xem
18/10
2021
1310 lượt xem
18/10
2021
1185 lượt xem
14/10
2021
1586 lượt xem
14/10
2021
1988 lượt xem
13/10
2021
886 lượt xem
13/10
2021
1617 lượt xem
12/10
2021
1784 lượt xem
12/10
2021
1283 lượt xem
11/10
2021
904 lượt xem
11/10
2021
1049 lượt xem
11/10
2021
1149 lượt xem
11/10
2021
1430 lượt xem
09/10
2021
1088 lượt xem
08/10
2021
1241 lượt xem
08/10
2021
1804 lượt xem
07/10
2021
1082 lượt xem
07/10
2021
1066 lượt xem
06/10
2021
1512 lượt xem
06/10
2021
886 lượt xem
05/10
2021
1009 lượt xem
05/10
2021
2535 lượt xem
05/10
2021
1375 lượt xem
04/10
2021
880 lượt xem
03/10
2021
2212 lượt xem
03/10
2021
1027 lượt xem
02/10
2021
1149 lượt xem
02/10
2021
1311 lượt xem
01/10
2021
1060 lượt xem
30/09
2021
1237 lượt xem
30/09
2021
1758 lượt xem
29/09
2021
2212 lượt xem
28/09
2021
1505 lượt xem
28/09
2021
1655 lượt xem
27/09
2021
1239 lượt xem
27/09
2021
1897 lượt xem
26/09
2021
982 lượt xem
26/09
2021
1633 lượt xem
25/09
2021
1237 lượt xem
25/09
2021
1118 lượt xem
24/09
2021
2044 lượt xem
24/09
2021
1060 lượt xem
24/09
2021
1332 lượt xem
24/09
2021
1660 lượt xem
28/06
2021
2155 lượt xem
18/05
2021
2064 lượt xem
18/12
2020
1273 lượt xem
24/11
2020
1828 lượt xem
04/11
2020
1272 lượt xem
01/10
2020
1277 lượt xem
29/09
2020
1446 lượt xem
24/09
2020
16725 lượt xem
17/09
2020
1401 lượt xem
16/09
2020
1541 lượt xem
08/09
2020
1140 lượt xem
28/08
2020
1057 lượt xem
20/07
2020
2198 lượt xem
06/07
2020
2622 lượt xem
26/06
2020
5250 lượt xem
22/06
2020
1276 lượt xem
22/06
2020
1814 lượt xem
16/06
2020
1579 lượt xem
12/06
2020
1301 lượt xem
11/06
2020
3546 lượt xem
09/06
2020
1190 lượt xem
09/06
2020
1395 lượt xem
05/06
2020
2591 lượt xem
20/04
2020
1310 lượt xem
10/04
2020
1209 lượt xem
11/03
2020
1958 lượt xem
07/03
2020
1432 lượt xem
06/03
2020
1661 lượt xem
07/11
2019
1925 lượt xem
07/11
2019
1369 lượt xem

Thứ 2 đến Sáng thứ 7 hàng tuần
Sáng : 07h30 - 11h30
Chiều: 13h30 - 17h00
chat facebook